Nộp đơn ra Tòa đã được coi là ly hôn chưa?

721

Thực tế, nhiều người mới chỉ nộp đơn ly hôn Tòa đã xem quan hệ vợ chồng hoàn toàn chấm dứt. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, liệu có phải thực sự như thế không?

Nộp đơn ly hôn: Quan hệ vợ chồng đã hoàn toàn chấm dứt chưa?

Theo khoản 14 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, ly hôn được định nghĩa như sau:

14. Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

Như vậy, có thể thấy, quan hệ vợ chồng chỉ chấm dứt khi có bản án hoặc quyết định của Tòa đã hiệu lực. Mà để Tòa án ra bản án, quyết định ly hôn thì hai vợ chồng phải làm thủ tục ly hôn. Hiện nay, ly hôn gồm hai hình thức: Ly hôn đơn phương và ly hôn thuận tình. Trong đó:

– Ly hôn đơn phương: Đây là trường hợp một trong hai vợ chồng gửi đơn đến Tòa án để yêu cầu ly hôn và Tòa án sẽ ra bản án ly hôn nếu có căn cứ vợ, chồng bạo lực gia đình hoặc vi phạm quyền, nghĩa vụ vợ chồng nghiêm trọng khiến hôn nhân trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.

– Ly hôn thuận tình: Trường hợp này hai vợ chồng cùng có mong muốn ly hôn, thỏa thuận được với nhau về việc chấm dứt quan hệ vợ chồng, tự nguyện và thỏa thuận được chia tài sản, trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con. Và khi hai vợ chồng gửi đơn ly hôn cho Tòa, Tòa án xem xét thấy đủ điều kiện thì sẽ ra quyết định ly hôn.

Chưa ly hôn, yêu người khác có bị phạt không?

Như phân tích ở trên, khi hai vợ chồng mới nộp đơn ra Tòa án mà chưa được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định ly hôn có hiệu lực pháp luật thì quan hệ hôn nhân vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt về mặt pháp lý, do đó, hai người vẫn được xem là vợ chồng hợp pháp. Theo quy định của khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình, vợ chồng phải có nghĩa vụ:

1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

Đồng thời, điểm c khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình khẳng định, việc đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng hoặc kết hôn với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng nhưng chung sống hoặc kết hôn với người có vợ, có chồng là hành vi bị cấm và có thể bị phạt tiền hoặc chịu trách nhiệm hình sự.

Cụ thể, cả người ngoại tình với người có gia đình và người có gia đình ngoại tình với người khác đều có thể bị xử phạt hành chính hoặc chịu trách nhiệm hình sự:

– Xử phạt hành chính: Từ 03 – 05 triệu đồng (Khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP).

– Chịu trách nhiệm hình sự:

  • Phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng – 01 năm: Làm người có gia đình phải ly hôn hoặc đã bị phạt hành chính mà còn vi phạm.
  • Phạt tù từ 06 tháng – 03 năm: Vợ, chồng hoặc con của người đang có gia đình tự sát hoặc đã có quyết định của Tòa án buộc chấm dứt việc chung sống như vợ chồng mà vẫn duy trì

(Điều 182 Bộ luật Hình sự về Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng)

Nguồn : luatvietnam.vn