Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo quy định mới nhất ?

1247

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Chương XVI của BLHS năm 2015 (từ Điều 168 đến Điều 180), do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm sở hữu, là việc người phạm tội đã dùng những thủ đoạn gian dối, đưa ra những thông tin sai sự thật, có thể bằng lời nói hoặc hành động làm cho người có tài sản hoặc người có trách nhiệm trông giữ, quản lý tài sản tin, tưởng giả là thật, mà “tự nguyện” giao tài sản cho người phạm tội.

Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau :

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”.

Do đó, ta có thể đưa ra khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau : tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân.

Trên thực tế, hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hợp thành bởi hai yếu tố. Đó là đưa ra những thông tin gian dối và chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản nhầm lẫn, tin tưởng vào những thông tin không đúng sự thật ấy mà trao tài sản cho người phạm tội. Khi giao tài sản chủ tài sản không biết mình bị lừa dối. Họ có thể phát hiện ra ngay sau khi trao tài sản nhưng bản chất của hành vi chiếm đoạt là dựa trên thủ đoạn lừa dối thì vẫn bị xử lý về tội này.

Nếu tài sản chiếm đoạt đang trong sự chiếm hữu của chủ tài sản thì hình thức thể hiện cụ thể của hành vi chiếm đoạt là hành vi nhận tài sản từ người bị lừa dối. Khi nhận tài sản cũng là lúc người phạm tội đã làm chủ được tài sản đó trên thực tế và cũng là lúc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được coi là hoàn thành.

Nếu tài sản bị chiếm đoạt đang ở trong sự chiếm hữu của người phạm tội thì hình thức thể hiện của hành vi chiếm đoạt là hành vi giữ lại tài sản đáng lẽ phải giao cho người bị lừa dối vì đã tin vào thông tin của người phạm tội nên người bị lừa dối đã nhận nhầm tài sản hoặc không nhận. Khi người bị lừa dối nhận nhầm hoặc không nhận tài sản cũng là lúc người phạm tội lừa đảo đã làm chủ được tài sản đó và cũng là thời điểm hoàn thành của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Ví dụ: A nhờ B chuyển cho C số tiền 50 triệu đồng. Trong lúc giao tiền cho C, B đã dùng thủ đoạn gian dối là ghi trong giấy giao nhận tiền là số tiền 50 triệu đồng, do tin tưởng B nên C đã ký vào giấy nhận tiền và không đếm cụ thể số tiền mình nhận, nhưng thực tế thì B chỉ giao cho C số tiền 40 triệu đồng. Khi về đến nhà C mới phát hiện ra số tiền mình nhận được chỉ là 40 triệu đồng, thiếu 10 triệu đồng. Như vậy B đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản thể hiện ở việc B ghi vào giấy giao nhận tiền với C là số tiền 50 triệu đồng, nhưng thực tế B chỉ giao cho C số tiền 40 triệu đồng và giữ lại 10 triệu đồng.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội có cấu thành vật chất, chính vì vậy việc xác định tài sản bị chiếm đoạt là dấu hiệu bắt buộc, đây là dấu hiệu định lượng để xác định cấu thành cơ bản hoặc cấu thành định khung tăng nặng của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản

Điều 355 của BLHS năm 2015 quy định :

1. Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 06 năm:

a) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm…

Hành vi khách quan của tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi vượt ra khỏi phạm vi quyền hạn của mình khi thi hành công vụ nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác thể hiện ở các thủ đoạn sau: lạm dụng chức vụ, quyền hạn uy hiếp tinh thần của người khác để chiếm đoạt tài sản; lạm dụng chức vụ, quyền hạn lừa dối người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của họ; lạm dụng chức vụ quyền hạn để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Việc phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản thực chất là việc phân biệt trường hợp “lợi dụng chức vụ quyền hạn” lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại điểm d, khoản 2 Điều 174 BLHS với tội lạm dụng chức vụ quyền hạn lừa dối chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tại Điều 355 BLHS.

Cả hai trường hợp phạm tội trên đều được thực hiện bằng hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản, chỉ khác nhau ở cách thức thực hiện hành vi phạm tội, cụ thể như sau: ở trường hợp lạm dụng chức vụ quyền hạn lừa dối chiếm đoạt tài sản được thực hiện bằng việc sử dụng chức vụ, quyền hạn mà người phạm tội có trong khi thi hành công vụ để lừa dối chiếm đoạt tài sản của người khác. Đây là một trong số các tội phạm về chức vụ nên hành vi khách quan của tội lạm dụng chức vụ chiếm đoạt tài sản phải được thực hiện trong khi thi hành công vụ.

Ví dụ: A là Chủ tịch xã, tuy không có thẩm quyền giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng A đã nói với B là mình có thẩm quyền và nhận của B số tiền 100.000.000 đồng để ký quyết định giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trái quy định.

Ở trường hợp “lợi dụng chức vụ quyền hạn” lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điểm d, khoản 2 Điều 174 BLHS năm 2015), hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản được thực hiện bằng việc dựa trên chức vụ quyền hạn mà người phạm tội có để lừa dối người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của họ. Việc lợi dụng chức vụ quyền hạn không đòi hỏi người phạm tội phải sử dụng chức vụ quyền hạn của mình trong khi thi hành công vụ để lừa dối người khác nhằm chiếm đoạt tài sản mà chỉ cần người phạm tội có chức vụ quyền hạn và dựa trên chức vụ quyền hạn để thực hiện hành vi phạm tội.

Ví dụ: A là điều tra viên huyện B, biết được vụ án H vận chuyển trái phép chất ma túy với khối lượng lớn do Công an tỉnh C đang thụ lý giải quyết. A biết M là người nhà của H nên đã gọi điện thoại cho M nói là mình được phân công giải quyết vụ án và có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho H với điều kiện M phải giao cho A số tiền 10.000.000 đồng, M đã tin tưởng và giao cho A số tiền 10.000.000 đồng.

Trong tình huống trên A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tình tiết định khung là “Lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội”.

Liên hệ luật sư tư vấn hình sự : 0913 597 479  ; 0904 902 429